179 Rủi ro đạo đức tồn tại quá lâu khiến thị trường tài chính Việt tiêu điều dù … chưa phải lúc (Kỳ 6) mới nhất

Nút thắt nợ toàn cầu kỷ lục (công và tư) đang ngăn cản các ngân hàng trung ương tăng lãi suất để đối phó với lạm phát. Kết quả của nền kinh tế và tài chính toàn cầu 2023 đã được rút ra: nợ kỷ lục và lạm phát cao buộc ngân hàng trung ương phải tăng lãi suất, dẫn đến vỡ nợ, phá sản, giá tài sản giảm và tăng trưởng trì trệ. Việt Nam chưa có lạm phát, nợ công thấp và thị trường vốn còn nhỏ nhưng đã đạt được mục đích chung này. Tại sao?

Triển vọng kinh tế toàn cầu năm 2023

Lạm phát đang trở thành đại dịch hoành hành khắp thế giới; Chính sách thắt chặt tiền tệ (NHTW tăng lãi suất điều hành, giảm cung tiền) nhằm kiểm soát lạm phát và cũng là để tăng giá trị đồng nội tệ, cạnh tranh với việc đồng USD tăng giá do Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed). Fed) thực hiện chính sách tiền tệ cao.

Fed tăng lãi suất 7 lần liên tiếp, trong đó có 4 lần tăng lên 0,75% vào năm 2022, Fed đẩy tỷ giá USD lên cao nhất kể từ năm 2007 (khủng hoảng tài chính toàn cầu). Điều này đã đẩy giá USD tăng vọt, có thời điểm lên 114 điểm, cao nhất kể từ năm 2002. Dòng tiền toàn cầu đảo chiều, USD ồ ạt đổ vào Mỹ. Cả thế giới đang thiếu USD.

Gần như không còn cách nào khác, tăng giá đồng nội tệ là cách duy nhất để ngăn dòng vốn USD chảy ra khỏi nước. Các ngân hàng trung ương trên thế giới mạnh tay tăng lãi suất và thắt chặt chính sách tiền tệ. Bằng cách này, giá trị của đồng nội tệ được tăng lên, vừa kiểm soát được lạm phát, vừa tăng tính hấp dẫn của đồng nội tệ, ngăn cản dòng vốn ngoại tháo chạy khỏi biên giới.

Nó hoạt động ‘một chiều ba chiều’ chứ không chỉ ‘hai chiều’. Nhưng không có nền chính trị nào hoàn hảo trên thế giới, càng không có bữa trưa miễn phí cho các chính trị gia tham lam chi tiền để có được phiếu bầu.

Trên toàn cầu, ngoài Trung Quốc đang phải vật lộn với thanh khoản ngân hàng bị đóng băng, vỡ nợ bất động sản buộc NHTW phải chấp nhận mất lợi thế cạnh tranh với USD, duy trì chính sách nới lỏng tiền tệ để cứu vãn căng thẳng tín dụng và tiền tệ trong thế giới. quốc gia. Chỉ trong 20 ngày đầu tháng 12, Ngân hàng Trung ương Trung Quốc (PBOC) đã phải bơm gần 800 tỷ CNY vào hệ thống ngân hàng thương mại, cao hơn nhiều so với dự kiến, nhằm đảm bảo thanh khoản cho hệ thống đang tăng trưởng.

Khả năng kiểm soát lạm phát của các ngân hàng trung ương bằng cách tăng lãi suất vẫn là một dấu hỏi lớn. Vì tăng lãi suất nội tệ đã đụng phải bức tường nợ công và nợ tư nhân hiện đang cao kỷ lục.

Kinh nghiệm kiểm soát lạm phát những năm 70 của thế kỷ trước là tỷ giá điều hành của ngân hàng trung ương phải cao hơn lạm phát thực tế; Điều này có nghĩa là lãi suất thực dương. Nhưng hiện tại, ngay cả Fed hay bất kỳ ngân hàng trung ương nào cũng chưa thể nâng lãi suất điều hành cao hơn mức lạm phát thực tế; Các ngân hàng trung ương dường như đang chờ đợi lạm phát chậm lại, mặc dù chậm, cho đến khi lãi suất của họ đạt đến mức lạm phát thực dương. Phải mất thời gian, rất nhiều thời gian để chờ đợi nó [xảy ra]. Điều này có nghĩa là việc tăng lãi suất để chống lạm phát sẽ còn phải kéo dài đến năm 2023, thậm chí có thể đến năm 2024 đối với một số nền kinh tế. Cái giá phải trả cho lãi suất cao liên tục là sự sụp đổ, sự sụt giảm giá thị trường của tài sản và sự đình trệ của tăng trưởng kinh tế.

Số liệu cập nhật tháng 12/2021 cho thấy khối lượng nợ thế giới đã đạt kỷ lục mới, gần gấp 3 lần tổng sản phẩm thế giới trong một năm (Nguồn: IMF).

Theo IMF, nợ công và tư nhân toàn cầu vào năm 2021, không giống như bất kỳ cuộc khủng hoảng nào trước đó, sẽ lên tới 247% GDP; Tỷ lệ này năm 2008 chỉ là 195%. Một cơ quan khác là Viện Tài chính Quốc tế (IIF) còn đưa ra con số lớn hơn IMF, nợ công và tư toàn cầu đã lên tới 360% GDP vào năm 2022; gần gấp đôi mức nợ toàn cầu so với cuộc khủng hoảng trước đó vào năm 2008.

Nợ buộc chính sách tiền tệ của các ngân hàng trung ương.

Lãi suất tăng khiến abcxyz và khu vực tư nhân rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán. Thị trường tiêu chuẩn cho các tài sản tài chính sử dụng đòn bẩy cao (tỷ lệ nợ cao so với vốn tự có để đầu tư và đầu cơ) bắt đầu giảm giá, nguy cơ khủng hoảng tài chính ở các nền kinh tế đang phát triển ngày càng tăng. Các nền kinh tế lớn như Mỹ, các nền kinh tế chung châu Âu, Trung Quốc ngày càng lớn mạnh.

Thực tế chứng khoán trên thế giới đã mất từ ​​10-50% giá trị trong năm 2022 trong năm qua, đồng tiền của các nền kinh tế vẫn giảm mạnh (10-50%) với USD, thị trường tiền tệ gần như mất giá khoảng 80%, giá bất động sản giảm ở hầu hết các nền kinh tế,…

Một cuộc khủng hoảng tài chính chưa từng có đang cận kề.

Việt Nam khác với các nền kinh tế lớn khác…

Nợ công và nợ tư/GDP bằng 1/2 mức trung bình toàn cầu

Theo số liệu chính thức từ Bộ Tài chính (tính đến tháng 9/2022), nợ công của Việt Nam năm 2022 ước tính chỉ khoảng 43-44% GDP; một con số lý tưởng so với mức nợ công bình quân toàn cầu hiện nay là 100% GDP và tốc độ tăng nợ công kỷ lục tại các nền kinh tế lớn như Trung Quốc, Nhật Bản, Mỹ, EU…

Đối với khu vực tư nhân, dư nợ tín dụng/GDP của Việt Nam ước đạt 120%, dư nợ trái phiếu doanh nghiệp khoảng 1.204 tỷ đồng, tương đương 12,8% GDP (theo Tạp chí Tài chính Việt Nam).

Như vậy, tính cả khu vực công và khu vực tư nhân, tổng dư nợ của Việt Nam chỉ ở mức 176,8% GDP, một con số quá khiêm tốn so với con số trung bình của IMF là 245% GDP và kém hơn rất nhiều so với IMF. Con số IIF là 360% GDP.

Lạm phát vẫn chưa bùng phát

Lạm phát chính thức công bố tháng 11/2022 bình quân chỉ 3,02%. Dự báo lạm phát cả năm 2022 sẽ duy trì ở mức mục tiêu (4-4,5%). Một tỷ lệ lạm phát đáng mơ ước đối với hầu hết các nền kinh tế trên thế giới. Tỷ lệ lạm phát của Mỹ hiện là 7,1%, trong khi EU ở mức hai con số, lạm phát ở các nền kinh tế Mỹ Latinh lâu nay ở mức ba con số.

Nguồn cung USD dồi dào, tăng trưởng tốt

Dòng vốn ngoại đang chảy khỏi Trung Quốc ở mức kỷ lục do sự phong tỏa khắc nghiệt và các chính sách khó lường trong đại dịch COVID-19. Một phần dòng vốn dài hạn và ngắn hạn như vậy chảy vào Việt Nam để tìm kiếm lợi nhuận trong bối cảnh nền kinh tế nước ta đã ổn định hơn về môi trường chính trị và đã hoàn tất mở cửa ra thế giới sau đại dịch. .

ntdvn screen shot 2022 12 20 at 10220 pm
Việt Nam đã thặng dư tài khoản vốn trong nhiều quý, kể cả trong thời kỳ đại dịch và hậu đại dịch (Nguồn: Trading Economics, NTDVN chụp màn hình).

Về giao dịch nói chung vào ngày 11 tháng 5 2022THĂNG BẰNG thặng dư thương mại 10,68 tỷ USD; đánh dấu năm thứ 5 liên tiếp Việt Nam xuất siêu. Tổng trị giá xuất nhập khẩu cả nước sau 11 tháng năm 2022 đạt 673,7 tỷ USD. Trong đó xuất khẩu đạt 342,19 tỷ USD; nhập khẩu đạt 331,51 tỷ DKK. Mặc dù xuất khẩu có dấu hiệu chững lại và số lượng đơn đặt hàng mới giảm nhưng rõ ràng nguồn cung USD vẫn dồi dào.

Tăng trưởng GDP năm 2022 mặc dù ở mức cực thấp của năm 2021 nhưng vẫn duy trì mức tăng cao hơn kế hoạch đề ra (6,5%) là khoảng 8% vào năm 2022; cao hơn nhiều so với các nền kinh tế khác trong khu vực và trên thế giới.

Nhưng kết quả cuối cùng là xấu: Rủi ro đạo đức xấu

Mặc dù có vẻ ổn định như mô tả ở trên, mặc dù nền kinh tế Việt Nam lẽ ra phải chậm hơn so với chu kỳ kinh tế thế giới, thị trường tài chính Việt Nam đang ở trong tình trạng hỗn loạn: hỗn loạn thị trường tiền tệ do lãi suất tiền gửi tăng cao gấp ba lần so với lạm phát thực tế , lãi suất liên ngân hàng cũng dao động quanh mức 8-9%/năm, thị trường ngân hàng thanh khoản và tín dụng quá tải, thị trường vốn cạn kiệt niềm tin và gần như đóng băng.

Ngân hàng Nhà nước đã ngầm hạn chế trần lãi suất huy động 9,5%/năm tại các ngân hàng thương mại. Trước động thái này, lãi suất huy động ở một số ngân hàng thương mại nhỏ lên tới 11-12%/năm.

Giá vốn tăng chóng mặt khi lạm phát chưa bùng phát và nguồn cung ngoại hối dồi dào là một thực tế rất bất hợp lý đang tồn tại trong nền kinh tế. Điều phi lý này chỉ có thể giải thích là do trong những năm qua, một bộ phận lớn vốn của nền kinh tế đã bị các khối kinh tế thao túng, tiêu hao: tức là các khối kinh tế không tạo ra giá trị thặng dư kéo dài sự tồn tại của các khối kinh tế. trên cơ sở nợ, cơ cấu lại nợ. Đơn cử như các công ty bất động sản FLC, Vạn Thịnh Phát hay Tân Hoàng Minh.

xem thêm

Chủ đề: Kinh tế Việt kẹt tiền ở đâu?

Lịch sử lặp lại sau một thập kỷ: Thị trường tài chính Việt Nam liệu có chứng kiến ​​diễn biến của năm 2011? (Phần 5)

Khối u ngốn tiền và hút hết ‘chất dinh dưỡng’ trong nền kinh tế Việt Nam (Phần 4)

Nhưng đáng tiếc, dường như các cơ quan quản lý giám sát thị trường tài chính như Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam lại “không nhận ra”, để lọt những xung đột lợi ích, những kẽ hở. các chính sách, hành vi lừa đảo nhà đầu tư trái phiếu doanh nghiệp (thị trường vốn), người gửi tiền (thị trường tiền tệ) diễn ra ngay trong các định chế tài chính.

Chẳng hạn, tình trạng ngân hàng bán bảo hiểm cho người vay, bán trái phiếu doanh nghiệp cho người gửi tiền đã diễn ra nhiều năm. Đây được xem như một chỉ số đo lường (KPI) dành cho người làm ngân hàng. Xuất hiện tình trạng nhân viên ngân hàng (dưới sự im lặng của cơ quan quản lý, giám sát và đề bạt của ban lãnh đạo ngân hàng) bất chấp đạo đức rao bán những sản phẩm mập mờ thông tin, thậm chí có yếu tố “lừa đảo”, “che giấu thông tin rủi ro sản phẩm”. cho khách hàng tại ngân hàng.

Đây không phải là hoạt động chui mà là hoạt động công khai trong sự im lặng và thờ ơ đến khó hiểu của cả một hệ thống cơ quan, ban ngành quản lý khu chợ này. Những hành động như vậy của các NHTM không chỉ làm tăng gánh nặng chi phí vốn cho người đi vay, tăng rủi ro cho người gửi tiền và làm mất lòng tin của người gửi và người vay vào hệ thống NHTM một cách nghiêm trọng. Về tổng thể, làm gia tăng rủi ro cho hệ thống ngân hàng nói riêng và hệ thống tài chính nói chung. Nhiều năm qua, các cơ quan quản lý, giám sát của Chính phủ chưa có động thái chính sách hay nhận thức rủi ro nào về vấn đề này.

Dường như câu hỏi về đạo đức ngành không chỉ với các giám đốc ngân hàng thương mại, các cán bộ tiếp thị, kinh doanh, tín dụng mà nó thực sự tồn tại trong các nhóm lợi ích, trong các cơ quan chịu trách nhiệm về thị trường này. Không ai trong hệ thống có ý định bảo vệ người gửi tiền. Người gửi tiền buộc phải trở thành chuyên gia tài chính để phòng ngừa rủi ro cho chính họ.

Đáng tiếc là thị trường tài chính Việt Nam vẫn đang phát triển ở mức rất thấp. Người Việt Nam chưa có chương trình giáo dục kiến ​​thức tài chính, nhưng thị trường đã trở nên quá hoang dã, rủi ro đạo đức tràn lan trước sự phản ứng chậm chạp của các cơ quan quản lý và giám sát thị trường này. .

Bài viết chỉ phản ánh quan điểm cá nhân, không nhất thiết là quan điểm của NTDVN.

Mời độc giả đón đọc Phần 7: Ổn định thị trường tài chính Việt Nam hiện nay: Cần một Tổng tư lệnh thực quyền và liêm chính

Quang Nhật